Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2017

Tình yêu và cuốn nhật ký đi qua cuộc chiến

Sau nhiều năm gìn giữ cuốn nhật ký tình yêu và chiến tranh dày 164 trang của hai vợ chồng, mới đây, ở tuổi 70, ông Trần Công Thắng và vợ là bà Nguyễn Thị Nguyệt Ánh đã quyết định trao cuốn nhật ký tặng lại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam.

Mãi mãi chỉ có yêu

Cuốn sổ lưu niệm dày 164 trang của ông Trần Công Thắng viết từ những năm 1970, khi ông đang ở chiến trường Tây Nguyên, Trường Sơn, Quảng Trị, đường 19 Nam – Lào. Những dòng nhật ký của đồng đội cùng đơn vị đã được vợ chồng ông Thắng tặng lại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam năm 2008, tạo nhiều cảm xúc với du khách gần xa đến thăm bảo tàng.

 Tình yêu và cuốn nhật ký đi qua cuộc chiến

  Ở tuổi thất thập, nhưng tình cảm của ông bà vẫn nồng ấm như thuở ban đầu. Ảnh: G.T

Đã đi cùng nhau đến gần cuối con đường, nhưng đôi lúc, ông Thắng bảo, ông vẫn thích “ngắm” trộm vợ mình lúc ngủ dậy, lúc bà gội đầu hay diện những bộ quần áo đi dự hội hè.   

Tìm đến căn nhà nhỏ của gia đình ông Trần Công Thắng ở phố Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai (Hà Nội), trên gương mặt bà Nguyễn Thị Nguyệt Ánh – nguyên chiến sĩ lái xe Trường Sơn (Đoàn 559 – Binh đoàn Trường Sơn) vẫn đầy ắp nụ cười hạnh phúc, nước da vẫn trắng hồng, săn chắc, mịn màng – dấu ấn một thời con gái xuân sắc, trải qua rèn luyện của bà chưa kịp phôi phai.

Nên duyên vợ chồng mấy chục năm, nhưng đôi lúc, ông Thắng bảo, ông vẫn  thích “ngắm” trộm vợ mình lúc ngủ dậy, lúc bà gội đầu hay diện những bộ quần áo đi dự hội hè. Vừa sửa sang lại cổ áo, đeo huy hiệu cựu chiến binh lên ngực áo ngay ngắn cho bà, ông nửa đùa nửa thật: “Bà bôi tí son đỏ vào môi cho mặt mũi tươi tắn một chút để tôi với bà còn chụp ảnh đăng báo”. Nghe vậy, bà Ánh khẽ lườm ông, nhưng vẫn còn vẻ ngượng ngùng của người phụ nữ Á đông.

Bà Ánh kể, trong số 40 chị em thuộc Đại đội nữ lái xe Trường Sơn, có lẽ bà là người may mắn nhất khi về với thời bình vẫn có một mái ấm hạnh phúc trọn vẹn, sinh được hai người con khỏe mạnh, học hành đến nơi đến chốn, thành đạt và đặc biệt, chuyện tình của ông bà đến giờ vẫn nồng ấm, đắm say như thuở ban đầu nơi núi rừng Trường Sơn gian khó.

Ngồi cạnh chồng, bà Ánh khẽ nắm bàn tay ông, giọng bà nhỏ lại: “Lúc ấy tôi là chiến sĩ lái xe Trường Sơn, còn ông ấy là bộ đội lái máy ủi, làm nhiệm vụ san đường, lấp hố bom, đảm bảo giao thông không đứt mạch”. Mỗi lần đoàn xe tải chở đạn dược, lương thực đến điểm tập kết, trong đêm tối mịt mùng của Trường Sơn, ông mường tượng có người yêu mình ở đó để hăng say san ủi thật nhanh, đẹp con đường mòn Hồ Chí Minh vừa bị cày nát bởi bom đạn”.

Còn bà lại luôn thấy yêu đời, lòng vui phơi phới mỗi khi đi qua những con đường vừa được san lấp hố bom, thấm đẫm mồ hôi, sương gió và cả nỗi nhớ tràn đầy của người yêu. Tuy cùng chiến tuyến, nhưng rất ít khi ông bà gặp nhau, rất nhiều lần hẹn hò nơi chiến trường, nhưng vì những nhiệm vụ đột xuất hay những trận bom bất thình lình của kẻ địch đã ngăn cản những buổi hẹn hò. Nhưng tình yêu của ông bà vẫn “chín” theo thời gian, lúc nào cũng thấy như đã ở gần nhau lắm rồi vì ông sửa đường cho bà đi, bà lái xe trên đường ông sửa để thành một con đường tình yêu của cả hai người.

Lá thư tình 10 trang giấy

 Tình yêu và cuốn nhật ký đi qua cuộc chiến

  Ông bà Thắng – Ánh thời trẻ.  Ảnh: T.L

Năm 1965, khi bà Ánh tham gia đơn vị thanh niên xung phong đóng tại tỉnh Yên Bái, ông đã gặp lại bà. Khi đó, ông Thắng là bộ đội lái máy ủi thuộc Tổng cục Hậu cần. Mỗi người đóng quân ở một đơn vị, một công việc khác nhau nên rất ít khi gặp nhau. Dưới làn bom đạn khốc liệt của chiến tranh, những cánh thư viết vội được gửi qua đồng đội, bạn bè có cái được, cái mất. Có khi ông phải viết 10 lá, bà mới nhận được 1 lá thư, tuy nhiên, tình yêu mãnh liệt ấy vẫn “nối” ông bà lại với nhau.

Biết chiến tranh còn dài, để được sát cánh cùng người yêu trên các chiến tuyến, năm 1968, bà Ánh xin chuyển từ thanh niên xung phong sang đơn vị bộ đội, đóng quân tại Binh trạm 25, lái xe tải và được di chuyển vào chiến trường Trường Sơn. Vài tháng sau, ông Thắng cũng náo nức cùng đơn vị được lệnh tăng cường cho tuyến đường mòn Hồ Chí Minh.

Cuối năm 1971, đơn vị của bà Ánh được rút về huyện Thường Tín (Hà Tây) và nhận nhiệm vụ mới – giáo viên dạy thực hành cho các lái xe nữ, còn đơn vị ông Thắng lại di chuyển tiếp vào chiến trường Tây Nguyên.

Ông Thắng kể: “Năm 1972, hôm ấy đúng ngày tết, chiến trường bỗng im ắng lạ thường. Nhiều đồng đội ông đã dự đoán hình như sắp có trận đánh lớn diễn ra. Ai cũng biết, chiến tranh, bom đạn không trừ ai cả, không biết liệu mình còn trở về không? Có đồng đội lấy mảnh vỡ máy bay nhặt được ra, người thì khắc tên đứa con chưa gặp mặt, rồi chuyển cho nhau cuốn sổ nhỏ để viết lại tên họ, địa chỉ quê quán với hy vọng nếu chiến tranh kết thúc, ai còn sống sẽ về tìm lại nhau.

Với ông Thắng, nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu khắc khoải, ông viết một lá thư rất dài cho người yêu. Vì sợ thư thất lạc như những lần trước, viết xong ông chép lại vào cuốn sổ lưu niệm với hy vọng, sau này gặp lại sẽ cho người yêu xem. Lá thư dài gần 10 trang giấy, ghi lại nỗi nhớ người yêu của ông Thắng khi hai người ở hai miền xa cách. Chiến tranh ác liệt, nhưng cả ông và bà đều sống bằng niềm tin và hy vọng: Sẽ được gần bên nhau.

Năm 1973, nhân dịp ông Thắng về phép, 2 người đã tranh thủ tổ chức đám cưới. Đám cưới của ông bà giản dị, không hoa, không xe đón dâu. Bộ quần áo cô dâu chú rể đều là áo sơ mi trắng và quần bộ đội. Sau đó ba tuần, ông Thắng lại trở vào chiến trường tiếp tục chiến đấu.

 Sau ngày đất nước thống nhất, bà Ánh phục viên và vào Bộ Tài chính làm ở đội lái xe. Tay lái của bà vững, lại điềm đạm nên được giao lái xe cho các Thứ trưởng như ông Ngô Thiết Thạch, bà Phạm Thị Mai Cương.  Còn ông Thắng, đến năm 1977 mới trở ra Bắc gặp lại vợ. Ông bà mới bắt đầu có đứa con đầu tiên. Hiện ông bà có hai người con đều thành đạt.

Trong căn nhà nhỏ ở phố Lĩnh Nam, Hà Nội, cũng như bao gia đình khác, 2 người cựu chiến binh ấy vẫn cùng nhau đảm trách việc đưa đón cháu đi học và nội trợ ở nhà giúp con cháu. Thi thoảng có thời gian, ông bà lại chở nhau đi thăm bạn bè cùng chiến đấu thuở xưa, thăm những người đồng đội của mình sau cuộc chiến không được may mắn đã mắc phải chất độc da cam, hiện tại còn vất vả. Vẫn giữ bản chất của người lính năm xưa, ông bà cũng tích cực tham gia những hoạt động của địa phương, tham gia giáo dục lớp trẻ về truyền thống đấu tranh bảo vệ đất nước.

 Trở về với cuộc sống từ mối tình trong cuộc chiến, ông Thắng và bà Ánh cũng phải đối mặt với bao khó khăn của những khó khăn thường nhật, nhưng với ông bà có tình yêu là sẽ nắm tay nhau vượt qua tất cả gian nan. 

Theo Danviet

Related Posts: