Thứ Hai, 8 tháng 5, 2017

Hàng Việt chiếm 70-90% trong siêu thị: Một nửa sự thật

 Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, 70% là do doanh nghiệp có vốn nước ngoài đóng góp, còn lại là hàng trong nước sản xuất.

Bộ Công Thương có cơ sở

Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) cho biết, hàng Việt chiếm tỷ trọng 70-80% tại kênh bán lẻ hiện đại. Đặc biệt, tại một số hệ thống siêu thị như Saigon Co.op hay Big C, tỷ lệ hàng Việt còn trên 90%.

Đưa ra quan điểm về vấn đề này, GS.TS Võ Thanh Thu, giảng viên ĐH Kinh tế TP.HCM cho rằng nếu chiếu theo các quy định của Việt Nam thì hoàn toàn có thể coi hàng hóa do nhà đầu tư nước ngoài sản xuất, gia công tại Việt Nam là hàng Việt. Và con số 70-90% mà đại diện Bộ Công Thương đưa ra có thể chấp nhận được.

Theo bà Thu, có 4 lý do chính để khẳng định hàng hóa do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất, lắp ráp trên lãnh thổ Việt Nam là hàng Việt.

Hàng Việt chiếm 70-90% trong siêu thị: Một nửa sự thật

Hàng Việt trong siêu thị

Đầu tiên, các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương cấp giấy phép cho những doanh nghiệp này hoạt động. Thứ hai, doanh nghiệp hoạt động theo Luật Việt Nam, từ Luật lao động đến Luật doanh nghiệp, Luật thuế, kế toán, ngân hàng, chứng khoán…

Đặc biệt, các đơn vị trên sử dụng nhân công Việt Nam, đất đai và các dịch vụ của Việt Nam, chẳng hạn như dịch vụ điện, dịch vụ nước, vận tải nội địa…

Tiếp theo, đây là các doanh nghiệp Việt Nam có vốn đầu tư nước ngoài. Khi xuất khẩu sang thị trường các nước thì trên sản phẩm ghi là hàng hóa sản xuất tại Việt Nam (Made in VietNam).

“Trong năm 2016, theo công bố của quốc tế, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt gần 180 tỷ USD. Nếu tính toán một cách cụ thể thì phải trên 70% là do doanh nghiệp có vốn nước ngoài đóng góp, hhàng Việt Nam tuần túy chỉ chiếm khoảng 30% hoặc dưới 30%.

Hơn nữa pháp luật Việt Nam có quy định rõ, tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam được xem là doanh nghiệp Việt Nam mang tác nhân việt Nam. Do đó, con số mà phía Bộ Công Thương đưa có có thể hiểu được phần nào”, bà Thu nhấn mạnh.

Chưa đủ…

Dù khẳng định việc khẳng định xếp hàng hóa do nhà đầu tư nước ngoài sản xuất, gia công tại Việt Nam là hàng Việt có cơ sở, tuy nhiên theo đánh giá của GS.TS Võ Thanh Thu, còn nhiều điều mà các cơ quan quản lý Việt Nam phải cân nhắc để có những tên gọi sản phẩm cho phù hợp hơn.

“Nếu nói thuần túy đồ do doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam là hàng hóa của Việt Nam là không đúng.

Yếu tố đầu tiên, những sản phẩm đó mang thương hiệu nước ngoài, sở hữu trí tuệ của nước ngoài. Dù nó sản xuất tại Việt Nam và tuân thủ các quy định của Việt Nam nhưng đây là sản phẩm mang phong cách quốc tế.

Hiện nay theo công bố của Bộ Công Thương hàng hóa trong siêu thị có đến 70-90% là hàng Việt nhưng thuần túy là hàng Việt theo nhận định của tôi chỉ có khoảng một nửa số này

Ví dụ đơn giản như điện thoại các loại của Samsung. Đây là doanh nghiệp có vốn của Hàn Quốc đầu tư tại Việt Nam. Dù sản phẩm lắp ráp, sản xuất tại Việt Nam và trên sản phẩm ghi “made in Viet Nam” nhưng những sản phẩm này đều mang thương hiệu của Hàn Quốc. Trường hợp một số nhãn hiệu cà phê hay bột giặt, xà phòng cũng vậy”, bà Thu nhấn mạnh.

Ngoài vấn đề doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trực tiếp vốn tại Việt Nam, vị chuyên gia còn chỉ ra một hiện tượng đang phổ biến những năm gần đây. Đó là các công ty, tập đoàn nước ngoài mua lại cổ phần của các doanh nghiệp Việt.

“Bia Habeco hay bia Sài Gòn hiện nay theo thông tin tôi biết, nước ngoài cũng mua gần 50% giá trị. Tập đoàn Thái Lan mua lại cổ phần của điện tử Nguyễn Kim hay công ty đường ở Tây Ninh rơi vào tay các nhà đầu tư đến từ Ấn Độ. Đây là thực trạng đang diễn ra, yêu cầu chúng ta phải nhìn nhận lại, nếu không sẽ không thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài”, bà Thu nói.

Nhìn nhận một cách tổng thể, GS Võ Thanh Thu thừa nhận, hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam không thể cạnh tranh được với hàng do nước ngoài sản xuất do vốn ít, sản phẩm chưa có đẳng cấp, chưa có thương hiệu.

“Có những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẵn sàng bỏ ra khoảng 500 triệu, thậm chí 1,5 tỷ đồng làm quà tặng cho các siêu thị khi đến khai trường. Và đương nhiên điều kiện kèm theo là hạn chế nhập hàng của các đối thủ cạnh tranh khác. Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam với những hạn chế trên làm sao chen chân nổi”, bà Thu lo ngại.

Kênh phân phối hàng hóa phải thay đổi

Để giải quyết tình trạng này, GS Võ Thanh Thu cho rằng cần phải có sự thay đổi toàn diện từ phía các cơ quan quản lý nhà nước đến bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.

“Chưa xét đến hệ thống vĩ mô, ở tầm vi mô hiện nay, các doanh nghiệp Việt cũng khó chen chân vào hệ thống phân phối của Việt Nam. Một phần do vốn ít, một phần thương hiệu chưa có nên siêu thị cũng ngại nhập hàng vì khó bày bán. Do đó tôi đề nghị mấy kênh phân phối phải thay đổi, tạo điều kiện hơn nữa cho hàng hóa của doanh nghiệp Việt.

Nhà nước không thể can thiệp trực tiếp vào người mua và người bán. Vì thế cần có những hỗ trợ, cơ chế tạo điều kiện cho doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam tồn tại, phát triển được”, bà Thu nói.

Bên cạnh đó, vị Giáo sư cũng đề nghị các doanh nghiệp phải tự nâng cao uy tín, xây dựng thương hiệu, làm ăn bền vững để hàng hóa sản xuất ra có chỗ đứng nhất định.

“Các hiệp hội phải liên kết chặt chẽ với nhau để tạo ra chỗ dựa cho doanh nghiệp Việt phát triển, cạnh tranh với hàng hóa do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất”, bà Thu nêu quan điểm.

(Theo Báo Đất Việt)

Related Posts: